HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU MÔ HÌNH VAC BỀN VỮNG
TẠI CÁC XÃ MIỀN NÚI PHÍA TÂY HUYỆN NÚI THÀNH
Tam Thạnh, Tam Sơn và Tam Trà là 3 xã miền núi nằm về phía Tây của huyện Núi Thành. Đây là các xã khó khăn của huyện với tổng diện tích đất tự nhiên 20.512ha (Tam Trà 9.713ha, Tam Sơn 5.403ha và Tam Thạnh 5.396ha); Trong đó, Tam Trà là xã nằm trong danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn theo Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng chính phủ ban hành và là xã được đầu tư các mô hình Khuyến nông áp dụng định mức hỗ trợ 100% giống và các vật tư thiết yếu theo Quyết định số 19/2012/QĐ-UBND ngày 02 tháng 7 năm 2012 của UBND tỉnh Quảng Nam.
Hầu hết các xã có điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi, địa hình đồi núi phức tạp, độ dốc lớn, chia cắt mạnh bởi các con sông, suối nên việc đi lại rất khó khăn;
Tuy các xã cách trung tâm huyện chưa đầy 30km nhưng sự tiếp thu thông tin về khoa học kỹ thuật đến với người dân còn nhiều hạn chế, nhất là gần 200 hộ đồng bào người Kor với hơn 1.000 nhân khẩu ở xã Tam Trà đời sống còn gặp không ít khó khăn. Hầu hết người dân sống bằng nghề nông là chủ yếu, nhưng ai ai cũng hăng say lao động, cần cù, chịu thương chịu khó và luôn gắn bó mật thiết với mảnh vườn, cánh rừng của họ.
Xuất phát từ thực tế trên, năm 2016, được sự lãnh chỉ đạo của UBND huyện Núi Thành, sự phối kết hợp của các ban ngành có liên quan ở huyện, sự vào cuộc và quan tâm sâu sát của UBND 3 xã Tam Thạnh, Tam Sơn và Tam Trà; Trạm Khuyến nông - Khuyến lâm tổ chức trình diễn 30 mô hình VAC bền vững tại 3 đơn vị nói trên.
Cán bộ kỹ thuật đang hướng dẫn bà con cách chăm sóc cây ăn quả. Ảnh: Phan Bi
Qua thời gian triển khai, đến nay được hơn 4 tháng, cây ăn quả hiện đang thời kỳ kiến thiết cơ bản. Tuy nhiên, gà ta thả vườn và các nước ngọt nuôi trong ao đất đã có sản phẩm, chúng tôi đã tổ chức hội thảo đầu bờ ngày 04 tháng 10 vừa qua và hiệu quả bước đầu được hạch toán sơ bộ như sau:
ĐVT: Đồng Việt Nam
|
Hạch toán
|
Cá Diêu hồng, Rô phi
|
Gà ta thả vườn
|
Tổng cộng
|
|
A. Phần chi
|
76.000.000
|
134.000.000
|
210.000.000
|
|
- Giống
|
19.950.000
|
75.000.000
|
94.950.000
|
|
- Vật tư (kể cả 50% giá trị thức ăn thô đối ứng của người hưởng lợi)
|
36.000.000
|
39.150.000
|
75.150.000
|
|
- Cải tạo ao, chuồng trại
|
15.000.000
|
15.000.000
|
30.000.000
|
|
- Công, chi phí khác
|
5.000.000
|
5.000.000
|
10.000.000
|
|
B. Phần thu
|
160.000.000
|
235.000.000
|
395.000.000
|
|
Lợi nhuận ròng(B-A)
|
84.000.000
|
101.000.000
|
185.000.000
|
Giải thích phần thu:
- Cá: 21.000 con * 72% * 0,4 kg/con * 30.000 đ/kg = 181.440.000 đồng
(Đơn giá tạm tính 30.000 đ/kg, sau khi trừ khoảng 10% rủi ro, thất thoát, chi phí thương mại, cá nhỏ phải thả trở lại ao,... tổng thu tương đương 160 triệu đồng)
- Gà: 1.500 con * 97% * 2 kg/con * 90.000 đ/kg = 261.900.000 đồng
(Đơn giá tạm tính 90.000 đ/kg, sau khi trừ khoảng 10% rủi ro, thất thoát, chi phí thương mại, một số ít gà trống hộ nuôi dùng trong tiệt tùng, liên hoan nhỏ, một số gà mái đẹp hộ để lại nuôi đẻ, tổng thu tương đương 235 triệu đồng)
Đánh giá kết quả và hiệu quả:
* Về mặt kỹ thuật:
- Cây ăn quả giống mới, chất lượng cao, bước đầu có thể nói là loại cây dễ trồng, ít sâu bệnh, tốc độ sinh trưởng nhanh, thích hợp với chân đất tại địa phương và phù hợp với tập quán canh tác của bà con nơi đây. Tuy cây trồng do chương trình đầu tư vì chưa đến thời điểm cho ra hoa kết quả nên chưa thể đánh giá sản phẩm được nhưng qua theo dõi chúng tôi thấy cây trồng trước đây của một số hộ tại địa bàn đã có rất nhiều quả, chất lượng quả thơm, ngọt, ngon và được mọi người ưa thích, nên bước đầu có thể nói rằng việc chương trình đưa các loại cây ăn quả này vào trồng trên những vùng đất phía Tây của huyện Núi Thành là một chương trình chắc chắn sẽ mang lại nhiều hiệu quả.
- Vì là giống được lai tạo nên chắc chắn qua nhiều thế hệ nhân giống sau này, nó sẽ bị thoái hóa. Trong thời gian đến chúng ta cần theo dõi chặt chẽ quá trình sinh trưởng và phát triển của cây đặc biệt là hết sức thận trọng trong công tác chọn lọc nhân giống sau này;
- Đặc biệt chúng ta có thể bảo tồn và duy trì được nguồn gen quý từ cây trồng con vật nuôi, là một việc làm có ý nghĩa rất lớn.
* Về tác động xã hội, môi trường và hiệu quả Khuyến nông:
- Chương trình mang lại lợi nhuận bước đầu tương đương 90% chi phí đầu tư là không lớn so với một số loại cây trồng con vật nuôi khác mang tính “Một vốn, bốn lời”. Nhưng qua mô hình VAC bền vững này, cây trồng con vật nuôi giống mới chất lượng cao, được tuyển chọn kỹ, được đầu tư thâm canh đã góp phần không nhỏ trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng con vật nuôi trên địa bàn huyện nhà và chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Bà con đã được nghe cán bộ tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, được giao lưu học hỏi về những kỹ thuật sản xuất khác có liên quan,... nên nhờ đó mà bà con được nâng cao kiến thức khoa học kỹ thuật và có điều kiện giao lưu học hỏi với các hộ trong và ngoài nhóm, góp phần làm thay đổi tập quán canh tác cũng như phong phú thêm cơ cấu cây trồng con vật nuôi và mở ra định hướng phát triển kinh tế vườn nhà một cách có hiệu quả tại địa phương mang tính ổn định, lâu dài và bền vững;
- Mô hình bước đầu giúp bà con nơi đây biết cải tạo vườn tạp, biết cách sử dụng phân bón, thuốc Bảo vệ thực vật trên cây ăn quả, không để những cây phi mục đích tồn tại, đồng thời góp phần cải tạo đất, cải tạo môi trường và chống xói mòn rửa trôi. Bà con biết được cách chăm sóc phòng trừ dịch bệnh trên cây trồng con vật nuôi, đặc biệt là biết được địa chỉ của các nhà cung ứng giống có uy tín trên thị trường. Đó là cái lợi vô hình mà chúng ta ít ai quan tâm đến;
- Qua tham khảo ý kiến các hộ tham gia chương trình thì hầu hết 100% họ rất hài lòng với chương trình này, họ sẵn sàng chia sẽ kinh nghiệm cùng nhau để cùng nâng cao kiến thức và kỹ năng hiểu biết về giống cây, con tương đối mới này. Đồng thời họ cũng mong muốn tự nhân rộng trong thời gian đến vì đây là mô hình thật sự mang tính bền vững./.
Phan Bi
Trạm K.nông – K.lâm Núi Thành