Green Orange Blue
Select the search type
 
  • Site
  • Web
Search

Chi tiết tin tức

Khuyến nông Quảng Nam-20 năm đồng hành cùng nông dân phát triển sản xuất
Người đăng: Võ Văn Nghi .Ngày đăng: 06/01/2017 15:30 .Lượt xem: 2151 lượt.
Nhìn lại 20 năm từ ngày tái lập tỉnh (1997-2017), nông nghiệp Quảng Nam đi lên từ một nền nông nghiệp thuần, còn nhiều yếu kém nếu không muốn nói là lạc hậu nhưng đến nay đạt nhiều thành quả, tạo thế và lực vững chắc cho kinh tế-xã hội tỉnh nhà phát triển và nông nghiệp, nông thôn tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa, trong đó có một phần công sức của hệ thống Khuyến nông

Sau khi tái lập tỉnh, ngành nông nghiệp Quảng Nam trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, từ một nền nông nghiệp có xuất phát điểm rất thấp, nhưng nhờ có nhiều quyết sách đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền các cấp và sự hưởng ứng của nông dân trong việc nghiên cứu, tiếp nhận và ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào sản xuất. Đến nay, ngành Nông nghiệp và PTNT Quảng Nam đã đạt những thành tựu quan trọng, tạo dựng được thế và lực khá vững chắc để phát triển và hội nhập, đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam. Trong đó, công tác khuyến nông luôn bám sát yêu cầu của sản xuất và thị trường, đồng hành cùng nông dân, nâng cao hiệu quả sản xuất.

Hệ thống tổ chức Khuyến nông không ngừng lớn mạnh

Khi mới tái lập tỉnh cũng là là lúc hệ thống Khuyến nông (Khuyến nông, Khuyến lâm, khuyến ngư) vừa tròn 5 tuổi (thành lập năm 1993), cán bộ khuyến nông toàn tỉnh chỉ có 73 người, mới chỉ có 05 Trạm khuyến nông (Núi Thành, Tam Kỳ, Thăng Bình, Điện Bàn, Đại Lộc), chưa có cán bộ khuyến nông cấp xã. Đến nay, trên toàn địa bàn có 01 tổ chức khuyến nông cấp tỉnh, 18 đơn vị khuyến nông ở các huyện, thị xã, thành phố với 151 cán bộ chuyên trách và gần 200  khuyến nông viên cơ sở (KNVCS) thuộc cấp xã, phường, thị trấn, thôn bản, tăng 43% so với giai đoạn 2006-2010 (có 140 KNVCS). Trong đó, cán bộ khuyến nông chuyên trách có trên 90% đạt trình độ đại học và trên đại học; KNV cơ sở có trên 30% có trình độ đại học. Đội ngũ cán bộ khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng kiến thức, có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề, bám sát với thực tiễn sản xuất, gắn bó mật thiết với nông dân hỗ trợ tích có hiệu quả với nông dân trong sản xuất và tiêu thụ nông sản.


Hàng năm mở hàng chục lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ Khuyến nông viên cơ sở và công tác viên khuyến nông

Bên cạnh đó, Khuyến nông chú trọng phát triển các nhóm hộ, câu lạc bộ khuyến nông (CLBKN), đến nay toàn tỉnh có trên 70 CLBKN hình thành và phát triển, có những CLBKN chung cho các lĩnh vực như: CLB Bình Nguyên Thăng Bình, Duy Tân Duy Xuyên, Quế Xuân 1-Quế Sơn, Tam Mỹ Tây – Núi Thành…còn có những CLB chuyên hoạt động trên một vài lĩnh vực như: CLB nuôi gà an toàn ở Duy Châu- Duy Xuyên, CLB trồng lúa hữu cơ ở Bình Quý Thăng Bình…Nhiều CLB hoạt động hỗ trợ cho các thành viên trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Đồng hành cùng nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất trên nhiều lĩnh vực

Lĩnh vực trồng trọt: Ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng mới, kỹ thuật canh tác mới không ngừng nâng cao năng suất cây trồng. Riêng lúa nếu năm 1997 năng suất chỉ đạt bình quân 31,3 tạ/ha thì năm 2006 đạt 45,96 tạ/ha và năm 2016 là 51,6 tạ/ha. Tương tự vậy, năng suất ngô năm 1997 chỉ 22,61 tạ/ha, năm 2006 đạt 41,44 tạ/ha và năm 2016 là 46,54 tạ/ha. Năng suất cây lạc, sắn cũng tăng gấp 1,5 đến 2 lần. hơn hết, giá trị thu nhập trên ha đất canh tác không ngừng gia tăng, năm 1997: 11,82 triệu đồng, năm 2006 là 23,58 triệu đồng, năm 2015: 75,30 triệu đồng. Từ những mô hình trình diễn, từng bước hình thành những vùng chuyên canh, sản xuất hàng hóa như: hiện có trên 150 cánh đồng lớn với hơn 5.000 ha chuyên sản xuất hạt giống lúa (sản xuất lúa thuần và lúa lai F1), biến Quảng Nam trở thành vùng sản xuất hạt giống lúa trọng điểm của khu vực miền Trung, góp phần tăng hiệu quả sản xuất lúa cao hơn 20 -30% so với sản xuất lúa đại trà; hình thành nhiều vùng chuyên canh rau, dưa hấu, ớt hàng hóa.


Các mô hình chuyển đổi thâm canh ngô lai trên chân đất lúa đem lại hiệu quả gấp 1,5 -2 lần lúa

Lĩnh vực chăn nuôi: Khuyến nông tập trung chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật về nâng cao năng suất con vật nuôi, ứng dụng các mô hình chăn nuôi tiến tiến, an toàn sinh học như: Các mô hình chăn nuôi heo ngoại, chương trình cải tạo đàn bò, mô hình nuôi gà thả vườn an toàn sinh học, chăn nuôi vịt biển, trồng cỏ, chế biến thức ăn tại chỗ nhằm giảm tối đa giá thành chăn nuôi…nhờ đó, mặt dù tổng đàn tăng chậm như: Tổng đàn gia súc năm 1997 là 712.500 con thì năm 2016: 741.000 con (tăng 28.500 con), nhưng giá trị chăn nuôi gia súc tăng đáng kể, như giá trị và hiệu quả của con heo ngoại so với heo móng cái, heo địa phương hay bò lai sind so với bò vàng địa phương cao hơn 1,5 đến 2 lần. Riêng chương trình sind hóa đoàn bò, những ngày đầu tái lập tỉnh cũng là lúc chương trình bắt đầu, Khuyến nông đã xây dựng mô hình, đào tạo cán bộ kỹ thuật dẫn tinh viên cho các địa phương đến nay tỷ lệ bò lai của toàn tỉnh đạt trên 55%, nhiều địa phương đạt khá cao trên 75 % như: Điện Bàn, Hiệp Đức, Bắc Trà My…Phương thức chăn nuôi từng bước chuyển biến theo hướng tích cực, giảm chăn nuôi nhỏ lẻ, tăng quy mô gia trại, trang trại, có nhiều mô hình chăn nuôi liên kết với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tiên tiến, bao tiêu sản phẩm.

Mô hình: Nuôi Vịt biển triển khai rất thành công tại Quảng Nam, hiện nay thị trường đã chấp nhận và có nhiều kênh phân phối rất tốt.

   Lĩnh vực thủy sản: Lĩnh vực thủy sản có mức tăng trưởng cao liên tục trong 20 năm qua, trong đó ấn tượng nhất là khâu nuôi trồng, tăng cả về diện tích (DT), và năng suất (NS), nếu như năm 1997 (DT: 4.498 ha, NS: 0,32 tấn/ha),  năm 2006 (DT: 7.225 ha, NS: 0,84 tấn/ha) và đến năm 2016 (DT: 8.280 ha, NS:2,42 tấn/ha). Nhờ áp dụng nhiều mô hình nuôi tiên tiến, nuôi an toàn, giá trị nuôi trồng trên ha mặt nước tăng khá cao, nếu như năm 1997: 13,92 triệu đồng/ha, năm 2006: 88,62 triệu đồng/ha đến năm 2016 đạt 143,12 triệu đồng/ha.

Đối tượng con vật nuôi cũng được đa dạng, ngoài con tôm thẻ chân trắng là chủ lực, còn nuôi các đối tượng như cá dìa, cua thương phẩm từ nguồn cua giống nhân tạo, nước ngọt có cá rô phi đơn tính, cá diêu hồng, cá lóc, cá leo, cá lăng nha đuôi đỏ…đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Đặc biệt từ năm 2010 đến nay nhờ trình diễn các mô hình nuôi cá lồng bè trên các hồ thủy điện, thủy lợi đến nay có trên 470 lồng bè, nhiều nơi hình thành tổ, nhóm liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả như: Khe Tân, Sông Tranh II, Sông Tam Kỳ…

Đối với khai thác, khuyến nông đã xây dựng mô hình lưới rê ba lớp, máy dò ngang, hầm bảo quản PU góp phần nâng cao hiệu quả đánh bắt cá, nhất là các tàu đánh bắt xa bờ.

Mô hình nuôi cá lồng bè là một trong những mô hình nuôi cá nước ngọt thành công

Lĩnh vực Lâm nghiệp: Xây dựng các mô hình nông, lâm kết hợp giúp sản xuất bền vững trên đất dốc, các mô hình lâm sản ngoài gỗ, bên cạnh đó xây dựng các mô hình trổng rừng nguyên liệu bằng các loại keo (keo lưỡi liềm, keo tai tượng, keo lai). Nhờ các mô hình này cùng với nhu cầu nguyên liệu giấy ngày càng tăng mà nghề trồng rừng nguyên liệu ở Quảng Nam phát triển mạnh mẽ, giúp nhiều nông dân trung du, miền núi thoát nghèo vươn lên làm giàu. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả rừng trồng, Khuyến nông tiếp tục trình diễn các mô hình trồng rừng nguyên liệu thâm canh bằng giống keo lai nuôi cấy mô, keo tai tượng Úc giá trị và hiệu quả gấp 2 - 2,5 lần trồng rừng truyền thống, nếu áp dụng biện pháp tỉa thưa, thâm canh rừng gỗ lớn (chu kỳ trên 10 năm) giá trị 01 ha rừng có thể đạt 400 triệu đồng/ha. Việc phát triển mạnh mẽ nghề trồng rừng sản xuất, cùng vói các chính sách khác để phát triển trồng rừng đã góp phần đáng kể tăng tỷ lệ che phủ rừng của tỉnh, từ 39 % năm 1997 đến năm 2006 là 43,8% và nay ước đạt 52%.

Lĩnh vực cơ giới hóa: Ngoài việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật như trên thì cơ giới hóa là một trong những giải pháp quan trọng để không chỉ giải phóng sức lao động cho nông dân mà còn làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất. Khuyến nông luôn chú trọng xây dựng các mô hình cơ giới hóa như: Làm đất, máy tỉa hạt, bón phân, công cụ sạ hàng cho lúa, máy gặt đập liên hợp, máy sấy lúa, ngô, các thiết bị phục vụ chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, máy chẻ sợ mây, chẻ tre cho nghề mây tre đan…Từ hiệu quả các mô hình này, Ngành đã tham mưu cho Tỉnh đề ra các chính sách hỗ trợ, nhờ đó tỷ lệ cơ giới hóa hiện trên các khâu sản xuất tăng khá cao.

Nghiên cứu Khoa học: Chủ trì 07 đề tài KHCN cấp tỉnh, 05 dự án KHCN, trong đó có 02 dự án KHCN cấp Bộ, tham gia hàng chục đề tài/dự án KHCN cấp tỉnh. Các đề tài/dự án KHCN đều thành công và có tính ứng dụng thực tiễn rất cao như: Đề tài: chọn giống đậu phụng mới thích hợp với điều kiện Quảng Nam (1998-2000), dự án: Xây dựng các mô hình nông lâm kết hợp hiệu quả trên đất dốc tại Quảng Nam (1999 – 2002), đề tài: khảo nghiệm một số giống cỏ phục vụ chăn nuôi tại Quảng Nam (2004 – 2006), đề tài: Bảo tồn giống heo địa phương tỉnh Quảng Nam (2007 – 2009), đề tài: Xác định các giống lúa cạn phù hợp với Quảng Nam (2005 – 2006), đề tài: xác định các mô hình canh tác hiệu quả cho vùng ven đô, và đô thị Quảng Nam (2008 – 2010), Đề tài: Xây dựng mô hình sản xuất dưa hấu theo hướng VietGAP tại Quảng Nam (2012-2014), đề tài: Xác định liều lượng phân bón hợp lý cho các chân đất lúa chính tại Quảng Nam (2014-2016)…Các đề tài, dự án được chuyển giao ngay trong quá trình thực hiện (nhờ áp dụng phương pháp nghiên cứu có sự tham gia của nông dân), khi kết thúc, các kết quả đề tài/dự án được Hội đồng KHCN thông qua được hệ thống Khuyến nông tập huấn, hướng dẫn triển khai vào thực tiễn sản xuất, góp phần rất lớn vào việc tăng năng suất cây trồng, con vật nuôi, tăng hiệu quả sản xuất.


Tập huấn bòi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ Khuyến nông 
cho cán bộ nông nghiệp tỉnh SêKông- Lào

Những thành tích đạt được trong 20 năm qua

Từ những kết quả phấn đấu nỗ lực của toàn hệ thống Khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở, đã được các cấp ghi nhận, trao tặng các danh hiệu cao quý như sau: 01 Huân chương lao động hạng III, 01 Cờ thi đua của Chính Phủ, 01 bằng khen của Thủ tướng Chính Phủ, hàng chục bằng khen của UBND tỉnh và Bộ Nông nghiệp & PTNT. Trung tâm đạt giải Nhất hội thi sáng tạo của tỉnh lần thứ V (2012-2013) về giải pháp: Xây dựng cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất lúa.

Tiếp tục đổi mới công tác Khuyến nông để cùng nông dân Quảng Nam thành công trong hội nhập

Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu, rộng với kinh tế thế giới, có nhiều cơ hội để phát triển nhưng rõ ràng thách thức lớn nhất với ngành Nông nghiệp đó là phải chịu sự cạnh tranh gây gắt, sản phẩm nông nghiệp làm ra không chỉ phải có giá thành thấp mà còn phải có chất lượng cao, tạo dựng thương hiệu uy tín. Vì vậy, với tốc độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật như hiện nay là còn chậm, khuyến nông mới chỉ tập trung vào khâu sản xuất là chưa đủ, chưa đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Để Khuyến nông đồng hành cùng nông dân đất Quảng hội nhập thành công, trước hết Công tác Khuyến nông cần phải đổi mới mạnh mẽ, đổi mới cả về tư duy và cách tiếp cận, nội dung và phương pháp, cụ thể:

 - Về tư duy và cách tiếp cận: cần phải xem nông dân, doanh nghiệp là “khách hàng”, công tác khuyến nông phải đáp ứng yêu cầu của khách hàng thay vì xem là “người cần được hỗ trợ, giúp đỡ” như trước đây; tăng cường công tác dịch vụ hỗ trợ cho nông dân, doanh nghiệp, là người bạn đáng tin cậy của nông dân, doanh nghiệp. Công tác khuyến nông là “cầu nối” giữa chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước; giữa nhà khoa học, doanh nghiệp, thị trường đến với nông dân, với sản xuất và ngược lại. Vì vậy, đội ngũ cán bộ khuyến nông không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn thông tường chính sách, phải nhiệt tình, gần dân, khiêm tốn cầu thị, nhất là trau dồi kiến thức về nông nghiệp công nghệ cao và kiến thức về thị trường. Đổi mới cách tiếp cận khuyến nông từ yêu cầu sản xuất như trước đây sang tiếp cận từ yêu cầu thị trường (sản xuất cái gì? Khi nào? Số lượng bao nhiêu? Mẫu mã chất lượng ra sao?). Vì xét cho cùng, thị trường quyết định đến sản xuất và yêu cầu sản xuất phải lựa chọn áp dụng khoa học - cộng nghệ sao cho phù hợp.

- Về nội dung và phương pháp:  Nội dung hoạt động khuyến nông phải bám sát Đề án tái cơ cấu ngành và chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, trong đó cần chú trọng một số nội dung trọng tâm sau:(i) Mỗi lĩnh vực lựa chọn một số ngành hàng có lợi thế cạnh tranh để xây dựng chương trình khuyến nông trọng điểm, khuyến nông theo chuỗi. (ii) Xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với chế biến và liên kết tiêu thụ nông sản. (iii) Đa dạng hóa hoạt động khuyến nông: Xây dựng mô hình trình diễn, đào tạo nghề, tập huấn, thông tin truyên truyền, hội chợ, triển lãm, diễn đàn…Nhưng phải đảm bảo đạt các mục tiêu: Thúc đẩy sản xuất, liên kết hợp tác, gắn với tiêu thụ sản phẩm.

 Cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp khuyến nông có sự tham gia và phương pháp khuyến nông theo chương trình mục tiêu. Vì phương pháp khuyến nông có sự tham gia (tiếp cận từ dưới nông dân trở lên) là nền tảng để xây dựng chương trình khuyến nông. Nhưng để tránh đầu tư dàn trải, có trọng tâm, trọng điểm thì cần phải áp dụng phương pháp khuyến nông theo chương trình mục tiêu, nhằm định hướng ưu tiên, tập trung nguồn lực để xây dựng ngành hàng chiến lược của tỉnh. Phải kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khuyến nông nhà nước với các hoạt động khuyến nông ngoài nhà nước, tăng cường hợp tác quốc tế để huy động  nguồn lực đầu tư và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm hoạt động khuyến nông.

VÕ VĂN NGHI
Nguồn tin: Trung tâm Khuyến nông Quảng Nam
[Trở về]
Các tin mới hơn:
Lời chúc mừng năm mới của Ban biên tập
Trồng mây nước dưới tán rừng cho hiệu quả kép
Biện pháp kỹ thuật: Chăm sóc rừng trồng kinh doanh gỗ lớn (bài 1)
Triển vọng giống lúa thuần TBR-225 trên đồng đất Núi Thành
Thông báo: Kết quả phân tích các chỉ tiêu môi trường nước và mầm bệnh tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng nam (Đợt 2 tháng 5)
Triển khai mô hình nuôi Bào ngư thương phẩm
Điện Bàn: Hội thảo đầu bờ mô hình trồng và thâm canh ngô kết hợp công cụ gieo hạt
Sâu, bệnh hại nấm Linh chi và cách phòng trừ
Kỹ thuật gieo ươm, trồng, chăm sóc và khai thác mây nước (Phần 1)
Nông dân huyện Núi Thành cơ bản giành thắng lợi trong vụ Hè Thu 2017
    
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10  
    
Các tin cũ hơn:
Quy hoạch sử dụng đất đến 2020 của Quảng Nam, Quảng Ngãi
Chương trình Hợp tác Quảng Nam - Sê Kông (Lào)
Bài thuốc chữa Áp huyết cao
KHUYẾN NÔNG QUẢNG NAM – 20 NĂM MỘT CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN
NFA mời Việt Nam đấu thầu 200.000 tấn gạo bổ sung
4 cách làm chậm lão hóa não
Những rau quả giúp bảo vệ gan
Cách chọn cua, ghẹ biển
Sử dụng thuốc tím trong xử lý nước
Cây bưởi trụ trên đất Tam Trà
    
1   2   3   4   5   6  
    





Thông tin cần biết

Liên kết Web

THÔNG TIN NGƯỜI PHÁT NGÔN

Họ và tên: Nguyễn Đình Vương

Chức vụ: Phó giám đốc phụ trách

Số điện thoại: 0905.296.696

Email: vuongnd3@danang.gov.vn

Thư viện Video


    Lượt truy cập

    Tổng số lượt truy cập

    00007293907

    Lượt trong ngày 399
    Hôm qua: 578
    Năm này: 49895
    Năm trước: 1520558
    Số người đang Online: 5
    Tổng số 7293907